Được thành lập theo Quyết định số 230/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 30/11/1998, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành vượt bậc trên mọi phương diện cùng những đóng góp trong phát triển chiến lược, chính sách về bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân.
Tập thể cán bộ Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (ảnh do Viện cung cấp).
Nghiên cứu khoa học cung cấp bằng chứng cho xây dựng chính sách y tế
20 năm qua, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế đã có nhiều đóng góp trong cung cấp bằng chứng cho xây dựng chính sách của ngành Y tế và đã được Bộ Y tế cũng như Chính phủ ghi nhận. Viện đã thực hiện được khoảng 260 đề tài nghiên cứu khoa học, trong đó có 3 đề tài cấp Nhà nước (một đề tài phối hợp với Cục Quân y, Bộ Quốc phòng được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh); 55 đề tài cấp Bộ và tương đương; 46 đề tài cấp cơ sở thực hiện theo chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Y tế; 51 đề tài hợp tác với các Vụ/Cục của Bộ Y tế; 73 đề tài hợp tác quốc tế; 16 đề tài nghiên cứu đánh giá nhanh trực tiếp cung cấp bằng chứng cho các cơ quan hoạch định chính sách… và 26 quy hoạch phát triển hệ thống y tế các tỉnh/thành phố.
Các chủ đề nghiên cứu của Viện đa dạng và bám sát chương trình nghị sự chính sách của Bộ Y tế, Chính phủ, Quốc hội và các Ban Đảng; tập trung vào các lĩnh vực như: Quản trị hệ thống; Tổ chức mạng lưới y tế, Cung ứng dịch vụ y tế, Nhân lực y tế, Tài chính y tế; Dược; Đánh giá Công nghệ y tế, Sức khỏe cộng đồng, DS-KHHGĐ.
Viện cũng đã cung cấp bằng chứng cho việc ban hành hơn 10 văn bản chỉ đạo của Đảng, 11 Luật của Quốc hội và hàng chục văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, ngành Y tế về lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Cụ thể như:
Nghiên cứu cung cấp bằng chứng cho việc hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân: Các đề tài nghiên cứu cung cấp bằng chứng cho việc ban hành Chỉ thị số 54-CT/TW; Kết luận số 42/2009- KL/TW, Kết luận số 43/2009-KL/TW và đánh giá kết quả 2 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 38-CT/TW; Đánh giá kết quả 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW và 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 46/2005- NQ/TW; Đánh giá 9 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 47/2005-NQ/TW cung cấp bằng chứng để ban hành Kết luận số 119/2014-KL/TW; Đánh giá cung cấp bằng chứng cho việc ban hành Nghị quyết số 20/2017-NQ/TW và Nghị quyết số 21/2017-NQ/TW.
Nghiên cứu cung cấp bằng chứng và trực tiếp tham gia Ban soạn thảo các chính sách của Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân: Cung cấp bằng chứng cho việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật: Luật Phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác; Luật Bảo hiểm Y tế; Luật Bảo hiểm Y tế sửa đổi; Luật Khám bệnh, chữa bệnh; Luật Khám bệnh, chữa bệnh sửa đổi; Luật An toàn thực phẩm; Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá; Sửa đổi bổ sung Luật Dược sau 6 năm triển khai thực hiện (2005 - 2011); Luật Phòng chống tác hại của rượu bia; Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn 2030; Đề án Phát triển y tế biển, đảo Việt Nam đến năm 2020; Đề án Xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới...
Nghiên cứu cung cấp các bằng chứng nhằm hoàn thiện các chính sách của ngành Y tế: Đề án Cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; Đề án Phát triển nghề công tác xã hội trong ngành Y tế giai đoạn 2011 - 2020; Tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011 - 2020; Đề án Giảm quá tải bệnh viện giai đoạn 2013 - 2020; Đề án Xác định phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ y tế công; Cung cấp bằng chứng cho xây dựng Thông tư về Gói dịch vụ y tế cơ bản do Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả; Cung cấp bằng chứng về đánh giá công nghệ y tế với một số dịch vụ kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh và thuốc để phục vụ cho xây dựng Thông tư về ban hành danh mục và tỷ lệ, điều kiện thanh toán đối với dịch vụ kỹ thuật y tế thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia BHYT cũng như phục vụ cho đàm phán giá thuốc; cung cấp bằng chứng cho Bộ Y tế ban hành Thông tư liên tịch quy định về tiêu chuẩn sức khỏe của người lái xe, việc khám sức khỏe định kỳ đối với người lái xe ô tô và quy định về cơ sở y tế khám sức khỏe cho người lái xe…
Đánh giá tác động dự thảo Luật trước khi trình Quốc hội phê duyệt: Dự thảo Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009; Dự thảo Luật An toàn thực phẩm.
Tư vấn, phản biện và vận động xây dựng chính sách y tế
Viện đã chủ động, tích cực phát huy vai trò tư vấn, tham mưu với Bộ Y tế, Chính phủ, Ban Tuyên giáo Trung ương và Quốc hội trong xây dựng chính sách phát triển hệ thống Y tế thông qua việc tổ chức các hội thảo tư vấn chính sách, diễn đàn đối thoại chính sách. Một số lĩnh vực quan trọng của hệ thống Y tế đã được Viện chú trọng nghiên cứu, tư vấn và tham mưu cho lãnh đạo Bộ Y tế, lãnh đạo các cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua, bao gồm: Kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở và chăm sóc sức khỏe ban đầu; Tài chính cho y tế, xây dựng gói dịch vụ y tế cơ bản, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế; Đánh giá công nghệ y tế trong lựa chọn dịch vụ kỹ thuật và thuốc do Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả; Các giải pháp tăng cường kỹ năng giao tiếp của nhân viên y tế và người bệnh trong các cơ sở khám chữa bệnh; Các giải pháp tăng sự hài lòng của người bệnh tại các cơ sở y tế; Các giải pháp nhằm kiểm soát và giảm thiểu tác hại đối với sức khỏe của các hành vi nguy cơ (sử dụng thuốc lá, sử dụng rượu bia, sử dụng dinh dưỡng không hợp lý…).
Viện đã viết nhiều báo cáo chính sách để tư vấn cho lãnh đạo Bộ và Chính phủ về kinh nghiệm quốc tế trong đổi mới hệ thống y tế, phát triển y tế cơ sở và chăm sóc sức khỏe ban đầu, mô hình đào tạo bác sỹ trên thế giới, phân hạng phân tuyến bệnh viện, các mô hình tổ chức các Viện nghiên cứu y học trên thế giới, phối hợp công tư trong lĩnh vực y tế...
Viện cũng đã tư vấn cho nhiều tỉnh trong xây dựng quy hoạch phát triển hệ thống Y tế tỉnh, quy hoạch mạng lưới các cơ sở khám chữa bệnh cũng như quy hoạch phát triển mạng lưới một số chuyên khoa.
Đào tạo và hợp tác quốc tế
Xuất phát từ việc nhìn nhận nhân lực là yếu tố quyết định đối với việc nâng cao vị thế của Viện nên trong những năm qua, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế đã rất chú trọng việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân viên. Trong 5 năm, Viện đã cử 12 nghiên cứu viên tham gia chương trình đào tạo sau đại học ở trong nước và nước ngoài; trong đó Viện tìm được nguồn học bổng để cử 8 nghiên cứu viên đi tham gia chương trình đào tạo Thạc sỹ và Tiến sỹ ở nước ngoài thuộc các lĩnh vực chuyên môn sâu như dịch tễ học, đánh giá công nghệ y tế, kinh tế y tế... nhằm đáp ứng yêu cầu tiếp cận liên ngành trong nghiên cứu chính sách và hệ thống y tế.
Mở rộng mạng lưới hợp tác trong nước và quốc tế cũng là một trong những thế mạnh của Viện nhằm tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật của các chuyên gia quốc tế cũng như huy động thêm nguồn lực tài chính cho công tác nghiên cứu khoa học, góp phần cung cấp kịp thời các bằng chứng có chất lượng đặc biệt là những thông tin rất có giá trị về các bài học kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng chính sách y tế cho Bộ Y tế, Chính phủ cũng như Ủy ban về các Vấn đề xã hội của Quốc hội.
Những đóng góp của Viện trong xây dựng chính sách của ngành Y tế đã được Bộ Y tế và Chính phủ ghi nhận và trao tặng nhiều danh hiệu thi đua cao quý cho tập thể và cá nhân. Năm 2011, một nhóm chuyên gia quốc tế trong lĩnh vực hệ thống y tế đã triển khai đánh giá độc lập về sự đóng góp của các đơn vị nghiên cứu chính sách y tế tại 6 quốc gia đang phát triển và kết quả của đánh giá đã cho thấy Viện Chiến lược và Chính sách Y tế là một trong những đơn vị nghiên cứu có tầm ảnh hưởng và có đóng góp hiệu quả nhất với sự phát triển chính sách của ngành Y tế.
Có được những kết quả đáng ghi nhận như ngày hôm nay là nhờ sự chung sức của nhiều thế hệ lãnh đạo cùng tinh thần đoàn kết, đồng lòng của tập thể Đảng ủy, Ban lãnh đạo, các tổ chức đoàn thể cũng như của từng cá nhân trong toàn Viện qua các thời kỳ.
Những chặng đường đã qua trong 20 năm xây dựng và trưởng thành của Viện Chiến lược và Chính sách Y tế luôn gắn liền với những dấu mốc quan trọng trong tiến trình đổi mới, phát triển, kiện toàn hệ thống Y tế ở nước ta. Sứ mệnh trong từng thời kỳ của Viện luôn xuất phát từ những nhu cầu bức thiết của sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong thực tiễn. Toàn thể tập thể cán bộ công chức, viên chức, người lao động Viện Chiến lược và Chính sách Y tế sẽ tiếp tục duy trì và phát huy những thành quả đã đạt được ngày hôm nay để phát triển Viện một cách bền vững nhằm thực hiện được tầm nhìn là: "Viện nghiên cứu hàng đầu ở Việt Nam và khu vực trong cung cấp bằng chứng, tư vấn, phản biện về chiến lược và chính sách y tế".
Tổ chức tiền thân đầu tiên của Viện Chiến lược và Chính sách Y tế là Trung tâm Nghiên cứu Nâng cao Chất lượng đào tạo nhân lực y tế được thành lập năm 1986.
Đến năm 1990, trước những đòi hỏi về đổi mới hệ thống Y tế trên thế giới cũng như ở Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Nâng cao Chất lượng đào tạo cán bộ y tế đã được đổi tên và nâng tầm thành Trung tâm Nhân lực Y tế trực thuộc Bộ Y tế theo phương châm đổi mới hệ thống Y tế bắt đầu từ đổi mới nhân lực y tế.
Năm 1996, Trung tâm Nhân lực Y tế được đổi tên thành Trung tâm Xã hội học Y tế. Sự ra đời của Trung tâm xuất phát từ nhu cầu nghiên cứu phát triển hệ thống Y tế phải gắn liền với từng bối cảnh xã hội cụ thể do vậy không chỉ đơn thuần dựa theo phương pháp tiếp cận của các ngành khoa học Y, Dược, Y tế công cộng mà cần phải có cách tiếp cận liên ngành với việc vận dụng tri thức của các ngành khoa học Xã hội nhân văn, trước hết là Xã hội học.
Từ năm 1998, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế được thành lập, có 3 chức năng nhiệm vụ chính là: Nghiên cứu cung cấp bằng chứng cho xây dựng chính sách y tế; Tư vấn, phản biện về xây dựng chiến lược và chính sách y tế; Đào tạo và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu chính sách và hệ thống y tế. Với cơ sở hạ tầng khang trang, Viện đủ điều kiện để thực hiện chức năng nghiên cứu cũng như đào tạo về nghiên cứu chính sách và hệ thống y tế.
Nguồn: http://giadinh.net.vn