Hơn một trăm năm qua kể từ khi trường hợp xốp xơ tai đầu tiên được phẫu thuật, cho tới nay cùng với sự phát triển của các chuyên ngành như thính học, chẩn đoán hình ảnh, công nghệ sinh học và vật liệu mới.....Việc điều trị bệnh xốp xơ tai đã có những bước phát triển vượt bậc. Cùng với sự phát triển chung của thế giới, tại Bệnh Viện Bạch Mai đã áp dụng những kỹ thuật tiên tiến trong điều trị bệnh xốp xơ tai.
Bệnh xốp xơ tai( thuật ngữ tiếng Anh: OTOSCLEROSIS, tiếng Pháp OTOSPONGIOSE) là bệnh loạn dưỡng xương (OSTEODYSTROPHY) vỏ xương mê nhĩ làm cứng, dính khớp xương bàn đạp vào cửa sổ bầu dục, hạn chế truyền âm vào tai trong, gây nên triệu chứng nghe kém tiến triển ở cả 2 tai.
Năm 1703 nhà giải phẫu nổi tiếng người ý Valsava lần đầu tiên mô tả sự xơ cứng, dính của xương bàn đạp vào cửa sổ bầu dục khi phẫu tích tử thi.
Năm 1893 Politzer đã kết luận xốp xơ tai là bệnh tiên phát của vỏ xương mê nhĩ.
Năm 1876 Kessel là người đầu tiên tiến hành tách xương đe khỏi xương bàn đạp, bộc lộ và lay động xương bàn đạp theo nhiều hướng khác nhau.
Năm 1923 Holmgren người Thuỵ Điển đã giới thiệu kính hiển vi phẫu thuật tai nhìn bằng 2 mắt và áp dụng cho ca mổ xốp xơ tai đầu tiên bằng cách mở cửa sổ ống bán khuyên ngoài(fenestration)
Năm 1938 Lempert đã sử dụng khoan điện mở cửa sổ ở ống bán khuyên ngoài với mục đích để âm thanh lọt vào qua phần sau của mê đạo vào vịn tiền đình của ốc tai, cửa sổ này thay thế cho cửa sổ bầu dục bị bịt tắc do ổ xốp xơ.Phương pháp này nhanh chóng không được được sử dụng vì bệnh nhân bị chóng mặt nhiều sau mổ và mất đi chức năng khuyếch đại của hệ thống màng nhĩ xương con.
Năm 1953 Rosen đã tiến hành lay động xương bàn đạp (mobilisation) nhằm tách xương bàn đạp khỏi ổ xốp xơ. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi trên thế giới và ở Việt Nam từ những năm 60 của thế kỷ trước.Tại Việt nam Giáo sư Trần Hữu Tước, Lương Sỹ Cần, Nguyễn Văn Đức ... đã áp dụng phương pháp này cho tới những năm 1990.Đây là phương pháp dễ làm, không tốn kém, tuy nhiên kết quả lại hạn chế do xương bàn đạp nhanh chóng bị cố định lại bởi ổ xốp xơ, do đó hiện nay không còn sử dụng nữa.
Năm 1957 Shea đã sử dụng kính hiển vi phẫu thuật, cạy lấy bỏ xương bàn đạp và thay thế bằng một trụ dẫn âm bằng Teflon(nhựa có tỷ trọng cao) và năm 1964 Shea đã sử dụng cả Teflon và sợi Titanium làm trụ dẫn âm. Cho đến ngày nay Teflon và Titanium là 2 chất liệu được sử dụng làm trụ dẫn âm trên toàn thế giới. Ở Việt Nam đã có một số ít các trường hợp được sử dụng các trụ dẫn âm bằng vật liệu này nhưng do giá thành cao nên ít được sử dụng.
Năm 1960 Schuknecht đã sử dụng sợi Titanium buộc vào một cục mỡ lấy ở dái tai làm trụ dẫn âm, buộc nối ngành xuống xương đe và cửa sổ bầu dục.Phương pháp này phổ biến ở Việt Nam trong nhiều năm qua do sự tiện lợi của vật liệu và giá thành rẻ. Tuy nhiên qua thời gian theo dõi có nhiều trường hợp thất bại và khi mổ lại kiểm tra thấy cục mỡ bị tiêu đi do đó ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật và hiện nay phương pháp này không dùng nữa.
Từ năm 2004 khoa TMH đã kết hợp với bộ môn vật liệu Silicat trường đại học Bách Khoa Hà Nội nghiên cứu ứng dụng gốm thuỷ tinh y sinh (Bioglassceramic) làm trụ dẫn âm thay thế xương bàn đạp.
Gốm thuỷ tinh y sinh với công thức hoá học giống với xương người do đó được dung nạp, cộng sinh, liên kết tốt với cơ thể, không gây nên phản ứng tạo u hạt (Granuloma),tồn tại lâu với cơ thể không bị tiêu đi như một số trụ dẫn âm khác.
Đặc biệt hình dạng của trụ dẫn âm bằng gốm thuỷ tinh y sinh được thiết kế theo hình ổ cối để tiếp xúc với ngành xuống xương đe, khắc phục được nhược điểm tiêu ngành xuống xương đe của các trụ dẫn âm hiện nay đang sử dụng trên toàn thế giới.
Trụ dẫn âm bằng chất liệu gốm thuỷ tinh y sinh không gây nhiễu hình hay hình giả (Artefact) trên phim chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng từ do đó có thể dễ dàng kiểm tra đánh giá trụ dẫn âm trên phim Xquang.
Gốm thuỷ tinh y sinh được nghiên cứu sản xuất với độ mềm, xốp phù hợp do đó có thể tiến hành mài ,cắt dễ dàng để tạo nên các trụ dẫn âm có hình dạng và kích thước khác nhau tuỳ theo từng trường hợp .
Đây là sản phẩm được tạo ra bởi đội ngũ các nhà khoa học trong nước, giá thành phù hợp, dự kiến khoảng 150.000đồng cho một bệnh nhân, nên có thể ứng dụng rộng rãi trong điều trị.
Qua ứng dụng nghiên cứu và theo dõi trên bệnh nhân được mổ thay thế xương bàn đạp bằng trụ dẫn âm gốm thuỷ tinh y sinh trong thời gian 2 năm qua tại khoa TMH có tới 92%đạt kết quả thành công phục hồi sức nghe cho người bệnh.
Thành công của nghiên cứu ứng dụng gốm thuỷ tinh y sinh làm trụ dẫn âm thay thế cho xương bàn đạp trong bệnh xốp xơ tai đã mở ra một triển vọng mới trong nghiên cứu ứng dụng các vật liệu y sinh thay thế các xương con trong các bệnh tai nói riêng và các bệnh TMH nói chung.Nó thể hiện sự kết hợp chặt chẽ nghiên cứu ứng dụng giữa các ngành khoa học tự nhiên và y tế , giúp cho việc điều trị bệnh nhân mang lại hiệu quả cao, chi phí phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Thạc sỹ : Lê Công Định
Trưởng khoa TMH- Bạch Mai