Responsive Image

DetailController

Bài viết chuyên môn

“PHÌ ĐẠI TUYẾN VÚ” KHÔNG CÒN LÀ GÁNH NẶNG TÂM LÝ, SỨC KHOẺ

Nhiều bệnh nhân đã thoát khỏi sự bất tiện, gánh nặng trong cuộc sống bởi “đôi gò bồng đảo” phì đại quá khổ nhờ những kỹ thuật phẫu thuật hiện đại. Tại BV Bạch Mai, với kỹ thuật tạo vạt trung bì tuyến mang phức hợp quầng núm vú có chứa mạch máu (NAC), chị em không chỉ được phẫu thuật thu gọn ngực mà còn có hình dáng mềm mại, tự nhiên, giữ được cảm giác và đảm bảo sự bài tiết sữa nuôi con.

Xung quanh chủ đề này, phóng viên Phòng Công tác xã hội đã có cuộc trao đổi với GS.TS Trần Thiết Sơn, chuyên gia phẫu thuật thẩm mỹ hàng đầu Việt Nam, cố vấn cấp cao Khoa Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ, BV Bạch Mai, người tạo ra và phát triển nhiều kỹ thuật phẫu thuật tạo hình vú mới, được giới y học trong nước và Quốc tế ghi nhận.

PV: Là một Giáo sư đầu ngành về tạo hình thẩm mỹ, Giáo sư có thể cho biết những dấu hiệu nhận biết “đôi gò bồng đảo” phát triển bình thường?

GS.TS Trần Thiết Sơn: Với chị em phụ nữ, ngực là một trong những phần quan trọng của cơ thể, tạo nên vẻ đẹp hình thể và thiên chức cao quý. Ngực bình thường có hình bán cầu ở thiếu nữ, tuy nhiên nửa dưới của bầu vú tròn và nhô ra phía trước hơn so với nửa trên. Ở người đã mang thai, sinh đẻ, nửa dưới bầu vú phát triển hơn và có tình trạng sa trễ.

Theo nhiều nhà nghiên cứu, vú được coi là bình thường khi thể tích nằm trong khoảng 200 - 250ml. Vị trí lý tưởng của quầng vú được xác định bằng các kích thước như sau: Chiều cao của vú bình thường: 12 - 15cm, chiều rộng: 13 - 15cm, khoảng cách từ cực trên quầng vú tới hõm chạc ức khoảng 17 - 18cm, khoảng cách từ núm vú tới đường giữa khoảng 9,5cm, khoảng cách từ cực dưới quầng vú tới nếp vú dưới khoảng 5cm, đường kính của quầng vú từ 2,5 - 5 cm, khoảng cách giữa hai núm vú 18 - 20cm.

Tuy nhiên khái niệm vú bình thường rất khác nhau theo chủng tộc, địa lý và quan niệm thẩm mỹ. Trong một số xã hội hiện tại, văn hoá về vú cũng còn được coi là một điều kiện để thể hiện tầng lớp trong xã hội của mỗi cá nhân, vì vậy người ta cố gắng thay đổi kích thước vú theo tầng lớp xã hội.

PV: Vậy những người có bộ ngực như thế nào thì được xác định là phì đại tuyến vú thưa Giáo sư?

GS.TS Trần Thiết Sơn: Phì đại vú là tình trạng bất thường về thể tích và hình dáng của vú, tăng trên mức bình thường. Nguyên nhân gây ra bởi sự phát triển của tuyến vú do hooc môn kèm theo sự thâm nhập tổ chức mỡ.

Khi thể tích vú tăng trên 300ml thì được coi là vú phì đại. Phì đại vú được chia làm các mức độ như sau: Phì đại trung bình (350 đến 500 ml), phì đại lớn (500 đến 1.000 ml), phì đại rất lớn (1.000 đến 1.500 ml), phì đại khổng lồ (lớn hơn 1.500 ml).

Tại nhiều nước, vú phì đại được coi là bệnh lý thường gặp và phẫu thuật thu nhỏ được bảo hiểm chi trả toàn bộ cho điều trị.

PV: Phì đại tuyến vú thường xảy ra với ai và ở lứa tuổi như thế nào thưa Giáo sư?

GS.TS Trần Thiết Sơn: Phì đại tuyến vú có thể xảy ra với bất kỳ ai, cả nam và nữ trong độ tuổi dậy thì cũng như thời kỳ sinh đẻ, trung niên. Bệnh thường ghi nhận tỷ lệ mắc cao ở phụ nữ.

Với những người bị vú phì đại, tình trạng quá khổ về kích thước của bầu vú gây cho bệnh nhân những bệnh lý toàn thân như: đau vai, đau cổ, đau lưng. Sự phì đại ở tuổi vị thành niên có thể dẫn tới gù hoặc biến dạng đốt sống cổ. Với người bị lâu dài, tình trạng biến đổi mạch máu cổ dẫn tới thiểu năng tuần hoàn não, đau đầu, loét thành ngực do sự cọ sát của bầu vú. Những người mắc phì đại vú bị hạn chế các hoạt động thể dục thể thao, hoạt động xã hội do mặc cảm về thể hình. Trẻ vị thành niên dễ bị chế nhạo, bắt nạt và cô lập với môi trường học đường. Các rối loạn về tâm lý và thể chất là diễn biến tất yếu của bệnh nhân.

Ở lứa tuổi dậy thì tình trạng vú phì đại thường rất lớn, vú phát triển đồ sộ không cân xứng với cơ thể. Bệnh nhân phải chịu đựng những biến đổi về thể chất và tinh thần, chịu những vấn đề tâm lý lớn. Họ thường là trọng tâm của những trò đùa độc ác từ bạn học, không mặc vừa quần áo bình thường và khó tham gia các hoạt động thể thao. Họ cũng bị đau vai, lưng và ngực mãn tính. Những bệnh nhân này khi phẫu thuật thu nhỏ vú, khả năng tái phát lại phì đại vú vẫn có thể xảy ra.

Phụ nữ sau sinh, vú phát triển ở ngay giai đoạn cho con bú, tiếp tục tăng khối lượng theo thời gian và những lần sinh con sau đó. Khối lượng vú tăng chủ yếu ảnh hưởng đến tình trạng sinh lý của bệnh nhân. Đau vai gáy, khó thở, gù lưng, giảm tuần hoàn não, viêm da ở bầu vú là những bất tiện trong cuộc sống họ gặp phải. Khả năng tái phát ở những bệnh nhân này thấp hơn bệnh nhân ở tuổi vị thành niên. Những bệnh nhân này bên cạnh yêu cầu thu nhỏ thể tích vú còn có những mong muốn tái tạo lại hình dáng bầu vú tươi trẻ.

Những bệnh nhân sau mãn kinh có phì đại vú chủ yếu liên quan đến tình trạng béo phì hoặc thâm nhiễm mỡ ở hai bầu vú. Đây là những đối tượng chủ yếu có yêu cầu thu nhỏ vú mà ít quan tâm đến vấn đề chức năng. Những bệnh nhân này có thể cân nhắc giữa phẫu thuật thu nhỏ vú và thủ thuật hút mỡ.

PV: Phẫu thuật thu gọn vú phì đại đã xuất hiện, phát triển từ rất lâu với nhiều kỹ thuật và hiện đang được áp dụng có phải không thưa Giáo sư?

GS.TS Trần Thiết Sơn: Phẫu thuật thu nhỏ vú trải qua hơn 100 năm phát triển về mặt kỹ thuật. Bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ 19, tính đến nay đã có hơn 200 kỹ thuật thu gọn vú và là lĩnh vực có nhiều kỹ thuật nhất. Dù là kỹ thuật nào thì mục tiêu phẫu thuật cũng phải đạt được sự an toàn của phức hợp quầng núm vú cả về hình thể và chức năng. Các xu hướng phẫu thuật thu gọn vú hiện tại tập trung vào việc giảm đường rạch da và tìm được loại cuống vạt mang phức hợp quầng núm vú có mang mạch máu an toàn nhất.

Một loạt các kỹ thuật thu gọn vú được đề xuất, trong đó các thay đổi kỹ thuật dựa vào hai điểm chính. Yếu tố thứ nhất là đường rạch da và cuống vạt nuôi quầng núm vú. Các đường rạch da thay đổi từ rạch da dài như kỹ thuật sẹo chữ T ngược, đến việc thu gon đường rạch da chữ L, J, sẹo thẳng và sẹo quanh quầng vú. Mục đích việc thay đổi chiều dài đường rạch da để giảm sẹo sau phẫu thuật, tránh các sẹo xấu hay sẹo lồi sau này. Yếu tố thứ hai là loại vạt mang quầng núm vú, đây là yếu tố quan trọng để đảm bảo cảm giác và khả năng tiết sữa sau phẫu thuật.

Rất nhiều các kỹ thuật tạo vạt mang quầng núm vú khác nhau, tuy nhiên chỉ giới hạn ở loại vú phì đại lớn. Với vú phì đại rất lớn hay khổng lồ, các kỹ thuật trên dễ gây ra các biến chứng như hoại tử một phần hay toàn bộ quầng núm vú, hoại tử mỡ và hoại tử da bầu vú.

PV: Được biết từ năm 2007, Giáo sư đã đề xuất một kỹ thuật phẫu thuật tạo hình mới, mang lại nhiều ưu điểm áp dụng cho vú phì đại rất lớn hay khổng lồ, giảm gánh nặng tâm lý cho chị em. Cụ thể kỹ thuật đó như nào thưa Giáo sư?

GS.TS Trần Thiết Sơn: Kỹ thuật tạo vạt trung bì tuyến mang phức hợp quầng núm vú (NAC) được tôi đề xuất từ năm 2007, đã áp dụng và tiến hành điều trị thành công cho nhiều bệnh nhân. Đây cũng là một trong những kỹ thuật đang được áp dụng trong phẫu thuật phì đại tuyến vú tại Bệnh viện Bạch Mai.

Dựa trên sự cấp máu tốt của các mạch xuyên từ động mạch vú trong và ngực ngoài, kỹ thuật này được áp dụng cho các trường hợp vú phì đại lớn hoặc khổng lồ mà trước đó chỉ có thể áp dụng bằng kỹ thuật cắt tuyến vú và ghép quầng núm vú tự do. Đây là một bước thay đổi về kỹ thuật được các tác giả đánh giá cao, kết quả mặt thẩm mỹ và chức năng hoàn thiện, giữ được cảm giác của quầng núm vú và đảm bảo sự bài tiết sữa nếu bệnh nhân co nhu cầu sinh đẻ sau này.

PV: Giáo sư có thể cho biết phẫu thuật thu nhỏ ngực được chỉ định ở phụ nữ nào và có những biến không?

GS.TS Trần Thiết Sơn: Phẫu thuật thu nhỏ ngực được chỉ định ở bất kỳ phụ nữ nào không có tiền sử chấn thương vú, chấn thương cổ hoặc lưng, các bệnh nền về tim mạch hoặc chuyển hoá. Tuỳ vào từng lứa tuổi, mục đích của phẫu thuật thu nhỏ ngực sẽ được chỉ định khác nhau về mặt chức năng hay thẩm mỹ.        

Phẫu thuật thu nhỏ ngực nói chung là một phẫu thuật an toàn. Tỷ lệ biến chứng xảy ra trong khoảng 5-20% trường hợp tùy thuộc vào kỹ thuật thực hiện và xác định loại biến chứng. Biến chứng gần: Chảy máu, tụ dịch, nhiễm trùng vể mổ, chậm liền vết mổ, thiểu dưỡng hoặc hoại tử quầng núm vú hoặc vạt da, rối loạn cảm giác quầng núm vú… Biến chứng xa: mất cân đối hai bầu vú, mất cân đối về hình thể của từng vú, tai chó ở cuối đường rạch da, mất cảm giác quầng núm vú, sẹo giãn hay sẹo lồi, vú quá nhỏ hay quá lớn

PV: Với những người muốn phẫu thuật ngực, Giáo sư có lời khuyên gì?

GS.TS Trần Thiết Sơn: Phẫu thuật ngực hay bất kỳ phẫu thuật tạo hình nào, khi có nhu cầu, người dân, khách hàng cần tìm hiểu và lựa chọn cơ sở uy tín, chất lượng, đảm bảo hiệu quả với chi phí hợp lý, tầm soát được các biến chứng. Quan trọng hơn, phải lựa chọn các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực, bởi chỉ cần một sai sót nhỏ nhất cũng có thể mang lại hậu quả lớn khó phục hồi.

Xin cảm ơn Giáo sư!

Nguyên Hà

FeaturedNewsController

Responsive Image
Responsive Image