Ngày đăng: 12/10/2023Mở đầu hội thảo là báo cáo “Tiếp cận chẩn đoán và quản lý nốt mờ phổi” do PGS.TS Vũ Văn Giáp - PGĐ Bệnh viện Bạch Mai, Tổng thư ký Hội Hội hấp Việt Nam trình bày. Báo cáo nhấn mạnh: Nốt mờ phổi, tổn thương thường gặp trên thực hành lâm sàng có kích thước bằng hoặc lớn hơn 3cm trong nhu mô phổi, không liên tục với rốn phổi và trung thất, không kèm theo hạch to, xẹp phổi hay tràn dịch màng phổi. Nguyên nhân thuộc dạng lành tính do nhiễm trùng, vi khuẩn, nấm, lao. Nguyên nhân thuộc dạng ác tính như ung thư biểu mô tuyến chiếm 60% và các loại ung thư khác. Có nhiều kỹ thuật để thăm dò như Chụp X- quang, chụp cắt lớp vi tính, chụp PET - CT, sinh thiết. Sau khi tiếp cận tổn thương mờ đám phổi bằng các phương pháp lâm sàng, thăm dò hình thái tổn thương CTVT lồng ngực và thăm dò xâm lấn, cần phân biệt các yếu tố nguy cơ, nhất là nguy cơ ác tính, cần được theo dõi, chẩn đoán kịp thời và thái độ xử trí khác nhau giữa các chuyên khoa.

Báo cáo “Tiếp cận chẩn đoán và quản lý nốt mờ phổi” do PGS.TS Vũ Văn Giáp - PGĐ Bệnh viện Bạch Mai trình bày
Đồng tác giả TS.BS Ngô Gia Khánh, Trưởng Khoa Phẫu thuật lồng ngực & Mạch máu, Bệnh viện Bạch Mai và TS.BS Mạc Thế Trường, Bộ môn Ngoại - ĐH Y Hà Nội đã trình bày báo cáo “Phẫu thuật cắt u tuyến ức nội soi một lỗ qua đường dưới mũi ức”. Tại Bệnh viện Bạch Mai, thời gian gần đây, phương pháp phẫu thuật cắt tuyến ức nội soi một lỗ qua đường dưới ức đã được áp dụng và mang lại thành công trong vài chục trường hợp bị u tuyến ức hoặc nhược cơ có tồn dư tuyến ức. Báo cáo đã nêu rõ quy trình phẫu thuật với các bước nghiêm ngặt, khoa học. Ưu điểm của phương pháp này là giảm đau sau mổ tốt hơn, không để lại di chứng đau mạn tính so với nội soi đường ngực do tránh làm tổn thương thần kinh liên sườn, cung cấp phẫu trường rõ ràng cho tuyến ức và thần kinh hoành hai bên, cho phép loại bỏ mô mỡ triệt để hơn, tăng cường độ an toàn nếu TM vô danh bị tổn thương gây chảy máu ồ ạt, có thể ngay lập tức cưa xương ức mà không cần thay đổi tư thế bệnh nhân, thuận lợi cho việc lấy bệnh phẩm vì không có cấu trúc xương dưới đường mổ này.
Bên cạnh đó, cần lưu ý một số nhược điểm của phương pháp này là: Đường mô nhỏ, không gian phẫu thuật hẹp nên cần thận trọng để dảm bảo an toàn và hiệu quả ca phẫu thuật. Dụng cụ đi trước màng tim để kích thích và gây chèn ép tim, khối u trung thất lớn, vị trí sâu hoặc góc dưới xương ức nhỏ hơn 90 độ sẽ khó khăn và nguy cơ tai biến trong phẫu thuật lớn hơn.... Tóm lại, kỹ thuật nội soi một lỗ dưới mũi ức là an toàn, hiệu quả và khả thi trong phẫu thuật tuyến ức, u tuyến ức hoặc nhược cơ có quá sản tuyến ức, nội soi một lỗ dưới mũi ức làm giảm đáng kể đau vết mổ sau phẫu thuật và tiềm năng ứng dụng trong lâm sàng.
Báo cáo “Sự phát triển của phẫu thuật nội soi lồng ngực” của PGS.TS Vũ Hữu Vinh - Bệnh viện Chợ Rẫy đã đưa ra những so sánh, những lợi ích và bất cập giữa hai phương pháp mổ nội soi kinh điển và mổ bằng rô-bốt. Cả hai phương pháp đều hướng tới mục tiêu tổng đường mổ càng nhỏ, càng ít xâm lấn càng tốt, mổ được ca khó, an toàn, cho tỷ lệ mổ nội soi càng cao càng tốt. Về nội soi kinh điển, việc đào tạo cầm tay chỉ việc có nhiều thuận lợi hơn, chi phí một ca phẫu thuật thấp hơn. Dùng rô-bốt có thể xử lý tốt gần như mổ mở mà nội soi kinh điển không xử lý được ở một số tình huống phức tạp. Phẫu thuật rô - bốt lý tưởng nhất trong các trường hợp cắt tuyến ức, cắt u trung thất giữa và sau, cao (nền cổ). Hiện nay, tại một số trung tâm của các bệnh viện lớn đã đạt được 90% phẫu thuật nội soi lồng ngực.

Khoa Phẫu thuật Lồng ngực Và Mạch máu, Bệnh viện Bạch Mai đã thực hiện thành công nhiều ca phẫu thuật khó, cứu sống nhiều người bệnh nặng
“Phẫu thuật lồng ngực xâm lấn tối thiếu: Chỉ định và các phương pháp tiếp cận tại bệnh viện Đà Nẵng” là chủ đề báo cáo do BSCKII. Ths Thân Trọng Vũ, Bệnh viện Đà Nẵng trình bày. Từ năm 2010, Bệnh viện Đà Nẵng đã bắt đầu thực hiện VATS (Kỹ thuật nội soi lồng ngực có hỗ trợ của video). Đây là kỹ thuật được áp dụng để thực hiện nhiều phương thức phẫu thuật khác nhau liên quan đến phẫu thuật lồng ngực với nhiều mặt bệnh phổi, trung thất, thực quản, thành ngực, màng phổi. Nội soi điều trị thường được chỉ định trong các trường hợp: Bệnh lý của phổi, bệnh màng phổi, phẫu thuật thành ngực, phẫu thuật thực quản, phẫu thuật trung thất, phẫu thuật cơ hoành, phẫu thuật tim và phẫu thuật cột sống. Báo cáo cũng trình bày và phân tích sâu về hệ thống nội soi, dụng cụ phẫu thuật, các ekip thực hiện và kết quả ở một số trường hợp phức tạp.
Hội thảo còn có một số báo cáo khoa học chuyên sâu của các chuyên gia đầu ngành nội hô hấp, phẫu thuật lồng ngực và gây mê hồi sức đến từ bệnh viện TƯ Quân đội 108, Học viện Quân Y, Bệnh viện ĐH Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Bạch Mai tập trung vào các phương pháp mới trong phẫu thuật lồng ngực, hướng xử trí các trường hợp bệnh lý phức tạp về thùy phổi, nang trung thất, u tuyến ức, kiểm soát tốt các biến chứng sau mổ ...
Hội thảo thành công trong bối cảnh Khoa Phẫu thuật lồng ngực - Mạch máu, Bệnh viện Bạch Mai qua chặng đường 5 năm phát triển vượt bậc, đem lại cơ hội để các đồng nghiệp cùng chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm sâu sắc.
Thùy Dương