Ngày đăng: 05/12/2025Tác giả: Điểm tin: DS. Vũ Hà PhươngGần đây, cơ quan Y tế Canada (Health Canada) đã công bố một bài viết nhấn mạnh nguy cơ độc tính nghiêm trọng liên quan đến điều trị toàn thân bằng 5-fluorouracil (5-FU) hoặc capecitabin ở bệnh nhân thiếu hụt enzym dihydropyrimidin dehydrogenase (DPD). Người bệnh thiếu hụt hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn hoạt tính DPD do biến thể di truyền có nguy cơ cao nhất gặp các phản ứng có hại nghiêm trọng, đe doạ tính mạng hoặc gây tử vong như viêm miệng, tiêu chảy, giảm bạch cầu trung tính, độc tính trên thần kinh, …
5-FU và capecitabin là thuốc hoá trị thuộc nhóm fluoropyrimidin, được chuyển hoá bởi enzym DPD. DPD được mã hoá bởi gen DPYD. Các báo cáo đã chỉ ra rằng người bệnh mang đột biến gen DPYD gây thiếu hụt enzym DPD có nguy cơ cao gặp các phản ứng không mong muốn nghiêm trọng khi điều trị với 5-FU hoặc capecitabin toàn thân.
Một tổng quan hệ thống được thực hiện với mục đích xác định mối tương quan giữa các biến thể DPYD với độc tính nghiêm trọng liên quan đến các thuốc nhóm fluoropyrimidin, trong đó có 5-FU và capecitabin. Kết quả cho thấy các biến thể gây thiếu hụt DPD (DPYD c.1679T>G, DPYD c.1236G>A/HapB3) có liên quan đáng kể tới độc tính trên hệ tiêu hoá và huyết học khi sử dụng fluoropyrimidin.

Từ ngày 01/01/2019 đến 05/03/2025, cơ quan Y tế Canada đã tiếp nhận 10 báo cáo phản ứng có hại nghiêm trọng liên quan đến nhóm fluoropyrimidin ở người bệnh thiếu hụt DPD. Trong đó, 6 ca liên quan tới capebcitabin, 4 ca liên quan tới 5-FU.
Phân tích từ 10 báo cáo gửi đến cơ quan Y tế Canada và 3 sự cố liên quan đến thuốc được Viện Thực hành An toàn thuốc (ISMP) Canada tiếp nhận, cho thấy nhiều vấn đề trong đánh giá nguy cơ và mức độ thiếu hụt DPD khi điều trị 5-FU và capecitabin. Phần lớn người bệnh không được xác định nguy cơ thiếu hụt DPD trước khi điều trị hoặc không được làm xét nghiệm đánh giá mức độ thiếu hụt DPD dù có các yếu tố nguy cơ như đặc điểm chủng tộc, tiền sử gia đình. Một số trường hợp, mặc dù đã được làm các xét nghiệm dược lý di truyền trước khi dùng thuốc nhưng không phát hiện biến thể gen có ý nghĩa lâm sàng. Triệu chứng nghiêm trọng thường khởi phát trong vòng 1 tuần kể từ chu kì điều trị đầu tiên trong hầu hết các ca. Ở những bệnh nhân tử vong, thời điểm tử vong rơi vào khoảng 1-2 tuần sau khi xuất hiện triệu chứng. Không có báo cáo nào đề cấp tới việc sử dụng thuốc giải độc.
Thiếu hụt DPD có thể được xác định thông qua định lượng nồng độ uracil trong huyết tương hoặc tỉ lệ dihydrouracil (một chẩt chuyển hoá của uracil) so với uracil. Xét nghiệm dược lý di truyền xác định sự hiện diện của một số biến thể DPYD cũng góp phần dự đoán mức độ thiếu hụt DPD.
Cơ quan Y tế Canada đưa ra khuyến cáo nên xét nghiệm thiếu hụt DPD trước khi điều trị 5-FU và capecitabin toàn thân (nếu có điều kiện). Tuy nhiên xét nghiệm còn nhiều hạn chế do dữ liệu về các biến thể DPYD phổ biến chủ yếu dựa trên quần thể người châu Âu.
Nhiều hướng dẫn đã được xây dựng nhằm hỗ trợ việc giám sát người bệnh điều trị fluoropyrimidin. Các bằng chứng chỉ ra rằng định lượng nồng độ thuốc trong máu hữu ích với bệnh nhân truyền 5-FU. Uridin triacetat là thuốc giải độc được chỉ định khi để điều trị khẩn cấp ngộ độc fluoropyrimidin khởi phát sớm, nghiêm trọng hoặc đe doạ tính mạng. Uridin triacetat phải được sử dụng trong vòng 96 giờ kể từ liều 5-FU hoặc capecitabin cuối cùng.
ISMP Canada đã đề xuất 6 biện pháp bảo vệ giúp ngăn ngừa và giảm thiểu tác hại do độc tính của các dẫn chất fluoropyrimidin:
- Nâng cao nhận thức và đào tạo cho nhân viên y tế;
- Tăng cường sự tham gia của bệnh nhân và người chăm sóc;
- Xét nghiệm trước điều trị và giải thích kết quả;
- Giám sát nồng độ thuốc trong máu;
- Nhận biết sớm các dấu hiệu và triệu chứng của phản ứng có hại của thuốc;
- Xem xét việc sử dụng thuốc giải độc và tính sẵn có của thuốc giải độc.
| Các thuốc hiện đang có trong danh mục thuốc của Bệnh viện Bạch Mai bao gồm: Biluracil (5-FU), 5-Fluorouracil “Ebewe” (5-FU), Capecitabine (capecitabin), Capecitabine Tablets USP (capecitabin), Pecabine (capecitabin) |