Tái tạo vú bằng chất liệu nhân tạo hoặc tái tạo vú bằng mô tự thân
Tại tọa đàm, PGS.TS Phạm Thị Việt Dung, Trưởng Khoa Phẫu thuật tạo hình - thẩm mỹ, Bệnh viện Bạch Mai cho biết với sự phát triển của y học hiện đại việc phẫu thuật tạo hình lại vú đã mang đến cho người bệnh ung thư bớt gánh nặng mặc cảm, tự tin trong giao tiếp, làm việc hơn.
Hiện nay, nhiều bệnh nhân ung thư vú được can thiệp, tái tạo lại bầu ngực ngay sau khi phẫu thuật loạt bỏ các tế bào ung thư. Tất cả diễn ra trong một cuộc phẫu thuật.
"Với từng trường hợp cụ thể, các chị em sau cắt vú ung thư có thể được tái tạo vú bằng chất liệu nhân tạo hoặc tái tạo vú bằng mô tự thân. Trong đó, phương pháp đặt túi độn ngực bằng silicone thường được sử dụng kết hợp với một túi giãn da để kéo dãn rộng mô da và cơ trước, có đủ da để bao phủ túi ngực. Chất liệu nhân tạo này có ưu điểm thời gian phẫu thuật và thời gian nằm viện ngắn"- PGS.TS Việt Dung thông tin.
Theo TS.BS Quang Hùng, áp lực công việc và cuộc sống làm cho rối loạn nội tiết, dẫn tới hậu quả là ung thư vú liên quan tới nội tiết ngày càng nhiều và người mắc đang trẻ hóa. Việc mất đi một phần bộ ngực có thể khiến người phụ nữ cảm thấy mặc cảm, vì vậy việc tạo hình để phụ nữ tự tin trong cuộc sống rất quan trọng.
Trong những năm gần đây Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong công tác sàng lọc phát hiện sớm và điều trị ung thư vú. Các cơ sở y tế đã triển khai nhiều chương trình sàng lọc giúp phát hiện sớm ung thư vú giúp nhiều bệnh nhân có cơ hội chữa khỏi bệnh hoặc ổn định bệnh lâu dài.
Tầm soát, phát hiện sớm ung thư vú có thể chữa khỏi lên tới 90%
Phát biểu khai mạc chương trình, PGS.TS Đào Xuân Cơ - Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai chia sẻ: Ung thư vú là bệnh có tỉ lệ mắc cao, đứng hàng đầu trong các bệnh ung thư ở nữ. Mỗi năm Việt Nam ghi nhận khoảng 21.555 ca ung thư vú mới mắc, khoảng 9.000 ca tử vong. Số bệnh nhân mắc trong 5 năm qua ước đạt 60.753 ca.
Theo chuyên gia, trước đây ung thư vú thường gặp ở những phụ nữ ngoài 40-50 tuổi, nhưng hiện nay đã ghi nhận nhiều trường hợp mắc bệnh ở lứa tuổi dưới 30. Thậm chí, các bác sĩ đã tiếp nhận bệnh nhân trẻ nhất mới 18 tuổi, tuy nhiên điều đáng nói ở người trẻ bệnh thường phát hiện muộn do chủ quan khiến cho việc điều trị khó khăn, hiệu quả kém.
Việc tầm soát phát hiện bệnh sớm có ý nghĩa quan trọng, tỉ lệ chữa khỏi lên tới 90%. Vì vậy, các chị em đừng trì hoãn, hãy tự chăm sóc bản thân và chủ động tầm soát định kỳ phát hiện ung thư vú.
Tại tọa đàm, các chuyên gia của Bệnh viện Bạch Mai cho biết điều trị ung thư vú là điều trị đa mô thức, bệnh nhân không chỉ là điều trị ung thư để duy trì sự sống mà còn phải tạo hình để tăng chất lượng sống.
Về tiến bộ trong phẫu thuật điều trị ung thư vú, TS.BS Quang Hùng cho biết, hiện nay đã có những bước tiến lớn về phương pháp điều trị như phẫu thuật, xạ trị, hóa trị và kết hợp với các phương pháp điều trị khác như liệu pháp nội tiết tố, liệu pháp nhắm trúng đích, liệu pháp miễn dịch và thực tế đã cải thiện đáng kể chất lượng điều trị ung thư vú.
Một số nghiên cứu phẫu thuật bảo tồn bao gồm cắt một phần tuyến vú và xạ trị cho thấy kết quả điều trị không thay đổi so với cắt vú tận gốc; ít di chứng, thẩm mỹ cao, cải thiện chất lượng cuộc sống và tâm lý bệnh nhân sau điều trị.
Phẫu thuật cắt vú tiết kiệm da, lấy đi toàn bộ tuyến vú, núm - quầng vú, sẹo sinh thiết (nếu có), chừa lại tối đa da vú, tái tạo vú tức thì là lựa chọn lâm sàng phổ biến hiện nay. Kỹ thuật này vẫn đảm bảo an toàn về mặt ung thư và thẩm mỹ.
Đồng thời để đảm bảo tối đa hiệu quả điều trị, các bác sĩ sẽ đánh giá tình trạng di căn hạch với người bệnh ung thư vú. Trong đó, hạch lính gác là chặng hạch đầu tiên bị di căn. Nếu hạch lính gác không bị di căn thì phẫu thuật vú sẽ không cần nạo hạch nách, giúp tránh các di chứng phù nề, hạn chế cử động tay sau phẫu thuật.
M.Thanh - T. Dương