Đánh giá đúng để có chiến lược điều trị đúng
UTCTC là bệnh ung thư hay gặp ở phụ nữ, chỉ đứng sau ung thư vú và ung thư buồng trứng, đặc biệt hay gặp ở các nước kém phát triển. Về chẩn đoán, ngoài dựa vào triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân (thường là rong kinh hay ra huyết bất thường) và thăm khám âm đạo, hiện nay phương pháp để sàng lọc sớm UTCTC là phương pháp soi tế bào phiến đồ âm đạo (Pap), để chẩn đoán xác định, người ta dùng soi cổ tử cung và sinh thiết. Tuy nhiên, để quyết định chiến lược điều trị UTCTC cần phải đánh giá được giai đoạn của bệnh theo bảng phân giai đoạn của Hiệp hội sản phụ khoa quốc tế (FIGO- International Federation of Gynecology and Obstetrics) mà trên thế giới hiện đang dùng. Đây chính là nhiệm vụ của chẩn đoán hình ảnh mà trong đó đặc biệt là chụp CHT. Chụp CHT có từ trường cao 1.5 Tesla sẽ đánh giá được các yếu tố: kích thước khối u, mức độ xâm lấn của u vào lớp cơ cổ tử cung, đáy dây chằng rộng, thành bên tiểu khung, các tạng lân cận (bàng quang, trực tràng), xâm lấn vào ống âm đạo. Trên cơ sở đó sẽ giúp bác sĩ điều trị có được chỉ định điều trị phù hợp nhất.Chiến lược điều trị UTCTC hoàn toàn phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh. Trước đây và trong phần lớn các bệnh viện tại Việt Nam hiện nay, các bác sĩ lâm sàng vẫn dựa vào thăm khám âm đạo và sinh thiết để đánh giai đoạn của bệnh. Tuy nhiên sinh thiết chỉ đánh giá được các giai đoạn ung thư tại chỗ và ung thư giai đoạn tiền lâm sàng, còn thăm khám âm đạo đánh giá các giai đoạn tiến triển hơn của bệnh có độ chính xác rất thấp (độ chính xác 68- 83%) ở ung thư giai đoạn lâm sàng, khi kích thước khối u ở mức độ 4cm. Trong giai đoạn ung thư phát triển ra ngoài cổ tử cung, chỉ ở 2/3 trên âm đạo và chưa tới thành bên tiểu khung thì chỉ đánh giá được 46-61%.
Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác như siêu âm hay chụp cắt lớp vi tính cũng có rất ít giá trị trong đánh giá mức độ xâm lấn tại chỗ của UTCTC. Trong khi đó, CHT từ trường cao 1.5 Tesla có độ phân giải cao, có chuỗi xung T1 xóa mỡ, có khả năng đánh giá được các yếu tố: kích thước khối u, mức độ xâm lấn của u vào lớp cơ, vào đáy dây chằng rộng, thành bên tiểu khung, các tạng lân cận (bàng quang, trực tràng), vào ống âm đạo sẽ là phương pháp chẩn đoán hình ảnh tối ưu để giúp phân giai đoạn UTCTC.
Phân loại giai đoạn UTCTC trên CHT
Hình ảnh của UTCTC trên CHT là tổn thương dạng khối hay đám thâm nhiễm, tăng nhẹ tín hiệu trên T2, tín hiệu trung gian trên T1, bắt thuốc sau tiêm gadolium nhưng kém hơn cơ thành ống cổ tử cung, vị trí xuất phát từ phần nội mạc của ống cổ tử cung hoặc phần lỗ ngoài cổ tử cung. Tổn thương có thể nằm khu trú trong cổ tử cung hay xâm lấn ra ngoài vào các cấu trúc lân cận, xâm lấn xuống dưới vào ống âm đạo hay lên trên vào trong buồng tử cung. Có thể thấy dấu hiệu gián tiếp là hình ảnh ứ dịch- máu trong buồng tử cung.
Kích thước của tổn thương để áp dụng trong phân giai đoạn của FIGO là kích thước đo được trên chiều lớn nhất của khối u, trên chuỗi xung T2. Cần lưu ý là trong đánh giá UTCTC, chuỗi xung T2 là chuỗi xung quan trọng nhất. Theo một số tác giả nước ngoài, không cần chụp chuỗi xung T2 FatSat để đánh giá u mà chỉ sử dụng khi muốn đánh giá di căn hạch.
Hình ảnh các giai đoạn UTCTC trên CHT 1.5 Tesla:
- Tổn thương ung thư giai đoạn tiền lâm sàng, khi khối u xâm lấn ở mức độ vi thể thường kín đáo vào hay có âm tính giả trên CHT, nếu có chỉ thấy u rất nhỏ tăng tín hiệu trên T2, trong ống cổ tử cung, lớp cơ thành cổ tử cung giảm tín hiệu còn nguyên vẹn, cân đối. Trong trường hợp trên, soi cổ tử cung và sinh thiết có u, không rõ trên CHT trên T2 thì nên tiêm đối quang từ. Cũng chính vì vậy theo các tác giả nước ngoài, những trường hợp khối u trên lâm sàng dưới 2cm có thể cân nhắc chỉ định chụp CHT.
- Tổn thương giai đoạn lâm sàng phá vỡ lớp cơ giảm tín hiệu thành cổ tử cung, nhưng vẫn còn một viền giảm tín hiệu bao quanh u.
- Tổn thương giai đoạn ung thư phát triển ra ngoài cổ tử cung, chỉ ở 2/3 trên âm đạo và chưa tới thành bên tiểu khung.
- Tổn thương giai đoạn ung thư phá vỡ hình giảm tín hiệu của thành ống âm đạo tới đoạn 1/3 dưới âm đạo hoặc u lan tới thành tiểu khung, xâm lấn cơ bịt trong, cơ lê, cơ nâng hậu môn hoặc u gây giãn niệu quản.
- Tổn thương giai đoạn cấu trúc tín hiệu tổ chức u lan vào gây mất hình ảnh giảm tín hiệu thành bàng quang hay thành trực tràng hoặc di căn xa vào các tạng hay cấu trúc giải phẫu khác.
Các dấu hiệu di căn hạch, di căn xa có thể phát hiện trên chuỗi xung T2 FatSat trên các lát cắt qua ổ bụng ở mức cao hơn.
Tóm lại, vai trò của CHT từ lực cao 1.5 Tesla trong bệnh lý UTCTC không phải là chẩn đoán xác định bệnh mà là đánh giá mức độ phát triển và xâm lấn của u, nhằm mục đích chẩn đoán giai đoạn của UTCTC theo phân loại FIGO, giúp bác sĩ lâm sàng đưa ra được chiến lược điều trị thích hợp cho từng bệnh nhân. CHT đã trở thành thăm khám hình ảnh không thể thiếu được trong đánh giá tổng thể UTCTC trước điều trị, cần được chỉ định tuyệt đối trong trường hợp khối u có kích thước trên 2cm.
Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh - Đại học Y Hà Nội
www.suckhoedoisong.vn