Ngày đăng: 21/07/2025Tác giả: Nguyên Hà - Thành DươngUng thư phổi có tỷ lệ mắc mới hàng đầu trên toàn thế giới và hàng thứ ba tại Việt Nam. Tiến bộ mới trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ, từ cá thể hoá dựa trên xét nghiệm sinh học phân tử đến phối hợp đa liệu pháp đã mở ra hi vọng sống mới cho người bệnh.
Hội thảo khoa học chuyên đề “Tiến bộ trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ” do Trung tâm Y học Hạt nhân & Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai phối hợp với các bệnh viện đầu ngành cả nước (Bệnh viện K, Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Trung ương quân đội 108, Bệnh viện Ung bướu Nghệ An) với sự hỗ trợ của Boehringer Ingelheim tổ chức đã mang đến bức tranh toàn cảnh về xu hướng điều trị hiện đại.

Chương trình thu hút sự quan tâm sâu sắc, đông đảo của các chuyên gia trên cả nước và thế giới qua cả hai hình thức trực tuyến, trực tiếp.
Khi điều trị không còn “mặc đồng phục” cho tất cả
“Chúng ta không còn điều trị ung thư phổi bằng một công thức chung. Mỗi bệnh nhân là một bản đồ gene khác biệt, cần chiến lược riêng biệt,” PGS.TS. Sun Min Lim (Khoa Nội, Đại học Y khoa Yonsei và Trung tâm Ung thư Yonsei, Hàn Quốc) mở đầu bài tham luận bằng nhận định mang tính cảnh báo và kỳ vọng.
Phó Giáo sư nhấn mạnh rằng ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) là một bệnh lý đa dạng về sinh học phân tử, trong đó khoảng 50% bệnh nhân mang đột biến gene dẫn đường, có thể được hưởng lợi lớn từ các thuốc trúng đích nếu được xét nghiệm đúng và kịp thời.
Với dữ liệu lâm sàng tại Bệnh viện Severance, PGS Lim trình bày vai trò của xét nghiệm gene toàn diện (Comprehensive Genomic Profiling - CGP) bằng giải trình tự thế hệ mới (NGS), cho phép phát hiện các đột biến hiếm và cơ chế kháng thuốc như T790M, C797S, MET amplification. Bà cũng khuyến nghị lồng ghép sinh thiết lỏng (liquid biopsy) như một công cụ hỗ trợ hiệu quả, đặc biệt khi mô sinh thiết hạn chế.

“Chúng ta không thể chiến thắng ung thư hiện đại bằng các xét nghiệm truyền thống. Chẩn đoán phân tử sâu rộng là điều kiện tiên quyết để bắt đầu đúng hướng điều trị. Một xét nghiệm tốt không chỉ phát hiện đột biến, mà còn giúp chúng ta tiên lượng được điều gì sẽ xảy ra tiếp theo,” bà khẳng định.
Điều trị phối hợp cục bộ (LCT): Biến bệnh di căn thành mạn tính
GS. BS Chiao-En Wu (Phân khoa Ung bướu, Khoa nội Tổng hợp, Bệnh viện New Taipei Municipal TuCheng, Đài Loan) gây chú ý khi trình bày chiến lược Local Consolidation Therapy (LCT) điều trị phối hợp cục bộ bằng phẫu thuật/xạ trị sau khi kiểm soát toàn thân bằng thuốc nhắm trúng đích.
Phân tích từ các nghiên cứu như FLAURA, MARIPOSA và dữ liệu thực tiễn tại bệnh viện TuCheng (Đài Loan) cho thấy: Thời gian sống không bệnh (PFS) có thể kéo dài tới 42-58 tháng. Một số bệnh nhân sống trên 72 tháng khi được phối hợp điều trị hợp lý.
Đáng chú ý, GS Wu chỉ rõ sự khác biệt giữa hai nhóm đột biến EGFR phổ biến: Đột biến xóa đoạn exon 19 thường tiên lượng tốt, tỷ lệ đáp ứng cao, thời gian sống thêm dài hơn. Đột biến điểm L858R tỷ lệ đáp ứng thấp hơn, dễ xuất hiện đột biến kháng thuốc như T790M, đòi hỏi theo dõi sát và điều chỉnh phác đồ linh hoạt.
“Điều trị ung thư phổi không còn là cuộc chiến đơn độc. Khi có chiến lược phối hợp đúng lúc, đúng đối tượng, chúng ta hoàn toàn có thể chuyển hoá bệnh giai đoạn tiến xa thành mạn tính”, ông nhấn mạnh.
Từ thực tiễn điều trị tại Việt Nam, BSCKII. Lê Viết Nam - Trung tâm Y học Hạt nhân & Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai chỉ ra “Trong bối cảnh Việt Nam, phần lớn bệnh nhân ung thư phổi được phát hiện ở giai đoạn muộn. Việc cá thể hoá điều trị dựa trên xét nghiệm sinh học phân tử, đặc biệt là bệnh nhân có đột biến EGFR có nhiều lựa chọn mang lại hiệu quả từ phối hợp thuốc ức chế tyrosine kinase với kháng sinh mạch đến các liệu pháp nhắm trúng đích đơn trị, hay chiến lược điều trị tuần tự tùy thuộc từng trường hợp cụ thể”.
Dữ liệu đời thực điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ tại Việt Nam, với 343 bệnh nhân từ 9 trung tâm ung bướu trong cả nước, tỷ lệ đáp ứng khi điều trị afatinib đạt trên 78%, trung vị thời gian đến khi thất bại điều trị 16,7 tháng, cho thấy hiệu quả không khác biệt với các nghiên cứu tại châu Á.

Đặc biệt, BSCKII Nam cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của cá thể hóa điều trị, không chỉ theo loại đột biến mà còn theo khả năng dung nạp, chi phí và điều kiện tiếp cận thuốc của từng bệnh nhân.
Từ đột biến hiếm đến cơ hội sống thêm
Nghiên cứu đời thực trên 34 bệnh nhân mang đột biến hiếm G719X - một đột biến vốn ít được nghiên cứu nhưng chiếm tỷ lệ không nhỏ ở người châu Á, ThS. BSCKI Trương Tấn Phát, Bệnh viện Ung bướu TP HCM mang đến một góc nhìn thực tiễn tại Việt Nam.
Cụ thể, theo báo cáo, nhóm bệnh nhân điều trị bước một bằng afatinib đạt tỷ lệ đáp ứng khách quan (ORR) lên đến 64,7%, thời gian điều trị trung vị là 19 tháng, và trung vị thời gian sống còn toàn bộ đạt 20 tháng, một con số rất đáng khích lệ trong bối cảnh bệnh tiến xa. Điều chỉnh liều làm tăng khả năng dung nạp nhưng không làm giảm hiệu quả điều trị của Afatinib.
“Chúng tôi chứng kiến không ít bệnh nhân sống thêm 3-4 năm với chất lượng sống tốt chỉ nhờ xác định đúng đột biến và sử dụng liệu pháp phù hợp. Những đột biến hiếm trước đây thường bị bỏ sót trong nghiên cứu, nhưng hiện nay lại là nhóm mang nhiều tiềm năng điều trị khi lựa chọn đúng thuốc”, ThS Phát nhận định.

Hội thảo khép lại với sự thống nhất từ các chuyên gia rằng: Cá thể hóa là chìa khóa, nhưng phối hợp mới là lối mở. Cụ thể, xét nghiệm phân tử sâu là “điểm xuất phát” đúng. Điều trị bước một cần lựa chọn linh hoạt giữa các thế hệ EGFR TKIs. Phối hợp điều trị tại chỗ(phẫu thuật/xạ trị) nên được xem xét sớm ở bệnh nhân di căn giới hạn hoặc đáp ứng tốt với điều trị. Các đột biến hiếm - nếu được nhận diện - có thể mở ra hy vọng sống không thua kém nhóm đột biến phổ biến.
Với nền tảng khoa học vững chắc và dữ liệu thực tế phong phú, những tiến bộ trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ hôm nay đang dần biến hy vọng thành hiện thực, đặc biệt với bệnh nhân châu Á - nơi tần suất đột biến EGFR cao hơn mặt bằng chung toàn cầu.