Ung thư đại trực
tràng là một trong những ung thư đường tiêu hóa có tiên lượng tốt, tuy nhiên, nếu
được phát hiện muộn thì cũng giống như tất cả các loại ung thư khác, khả năng
điều trị ít hiệu quả. Vì vậy, cần phát hiện khi ung thư còn ở giai đoạn sớm hoặc
các tổn thương tiền ung thư. Nếu phát hiện ung thư đại tràng ở giai đoạn sớm có
nghĩa là khi tế bào ung thư chỉ nằm tại lớp niêm mạc, thì có thể áp dụng phương
pháp nội soi cắt tách dưới niêm mạc (Endoscopic Submucosal Dissection- ESD ) lấy
bỏ toàn bộ vùng ung thư tại lớp niêm mạc mà vẫn giữ nguyên được đại trực tràng (Phương pháp này làm tương tự như đối ung
thư dạ dày sớm: xem trong bài cắt tách dưới niêm mạc qua nội soi điều trị ung
thư dạ dày sớm và tiền ung thư). Sau khi cắt tách niêm mạc bệnh nhân khỏi hoàn
toàn mà không phải chịu phẫu thuật cắt bỏ đoạn đại tràng, đồng thời bệnh nhân
không phải dùng tia xạ hoặc hoặc hóa chất để điều trị.
Ung thư đại tràng trực tràng có thể gặp ở bất cứ vị trí nào của đại tràng: trực tràng, đại tràng sigma, đại tràng xuống, đại tràng ngang, đại tràng lên và manh tràng. Đại tràng sigma và trực tràng tương ứng với vùng hạ vị hay vùng trên xương mu và dưới rốn. Đại tràng xuống tương ứng với bên trái của ổ bụng. Đại tràng ngang tương ứng với vùng dưới mũi ức và trên rốn hay vùng thượng vị. Đại tràng lên tương ứng với vùng bên phải của ổ bụng. Manh tràng tương ứng với hố chậu phải hay ngang với bên phải của rốn. Khoảng 42% ung thư đại tràng nằm tại vị trí đại tràng phải, bao gồm: manh tràng, đại tràng lên, đại tràng ngang, gần 60 % ung thư năm tại đại tràng trái bao gồm: đại tràng xuống, đại tràng sigma và trực tràng [4].
Ung
thư thư đại trực tràng biểu hiện như thế nào?
Ung thư đại tràng điển hình biểu hiện
bằng đi ngoài ra máu, ỉa lỏng phân lẫn máu như máu cá nhưng cũng có khi ỉa nhiều
máu, đau bụng. Tùy theo vị trí của ung thư mà có vùng đau tương ứng khác nhau.
Bệnh nhân có thể ỉa lỏng ngày một hoặc nhiều lần, cũng có thể táo bón: 2 hoặc hoặc 3 ngày đi ngoài một lần
phân cứng hoặc phải rặn nhiều khi đại tiên, khuân phân có thể nhỏ hơn bình thường.
Gầy sút là biểu hiện muộn, có thể chán ăn, buồn nôn. Đối với ngời lớn tuổi
(>50 tuổi) khi có đại tiện phân máu thì trước khi chẩn đoán bị bênh trĩ bao
giờ cũng phải loại trừ người đó có ung thư đại trực tràng hay không.
Những
nguyên nhân gì gây ung thư đại trực tràng?
Cho tới
nay cũng giống như nhiều loại ung thư khác người ta cũng chưa biết được nguyên
nhân gây ung thư đại trực tràng. Trên 75-95% ung thư đại trực tràng xuất hiện ở
những người mà không có liên quan tới yếu tố về gen [5],[7]. Phần lớn ung thư đại trực tràng xuất
hiện từ các polyp ung thư hóa. Polyp tuyến là loại hay ung thư hóa khi mà kích
thước > 1cm.
Những người mà có bố mẹ và anh em ruột
bị ung thư đại trực tràng thì khả năng người đó bị ung thư đại trực tràng cao gấp
2-3 lần so với người không có tiền sử gia đình bị ung thư đại trực tràng.
Các yếu tố nguy cơ gây ung thư đại trực
tràng: nam giới hay bị hơn nữ, người lớn tuổi hay bị hơn so với người trẻ tuổi [7]. Ung thư đại tràng tăng dần theo tuổi.
Tại Hoa Kỳ chỉ khoảng 0,1 % ung thư đại trực tràng được chẩn đoán ở tuổi 20,
1,1% ở tuổi 20-34, 4% ở tuổi 35-44, 13,4% ở tuổi 45-54, 20,4% ở tuổi 55-64, 24%
ở tuổi 65-74, 25% ở tuổi 75-84 và 25% ở tuổi 85 [6]. Như vậy, 94,9% ung thư đại trực
tràng đươc chẩn đoán ở tuổi trên 45. Chế độ ăn nhiều chất béo, ăn nhiều thịt đỏ,
uống nhiều rượu, béo phì, hút thuốc lá, ít vận động thể lực cũng là các yếu tố
nguy cơ làm tăng khả năng ung thư đại trực tràng [7]. Khoảng 10% số trường hợp ung thư đại trực tràng liên quan tới ít vận động [8]. Nguy cơ ung thư đại trực tràng tăng
lên khi một ngày uống trên 2 đơn vị cồn với nam và 1 đơn vị cồn với nữ (theo
tiêu chuẩn 1 đơn vị cồn của Hoa Kỳ tương
đương 14g ethanol, bằng khoảng 300 ml bia 5 độ và khoảng 120 ml rượu vang 12 độ) [9]. Ăn nhiều rau quả tươi và nhiều chất
xơ làm giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng [5].
Làm
cách nào phòng được ung thư đại trực tràng?
Phần lớn ung thư đại trực tràng xuất hiện ở
những người trên 50 tuổi. Chính vì vậy cần tiến hành soi đại tràng cho tất cả mọi
người ở lứa tuổi > 50, kể cả những người không có triệu chứng. Nếu soi đại
tràng hoàn toàn bình thường và không có polyp thì sau mười năm mới phải soi lại.
-
Những người có nguy cơ cao ung thư đại
trực tràng: khi soi đại tràng phát hiện có từ 3-10 polyp loại
tuyến ống (tubular adenomas) trở lên hoặc có loạn sản mức độ cao hoặc polyp loại
nhung mao hoặc loại ống tuyến nhung mao hoặc polyp có kích thước ³
1 cm bệnh nhân cần được soi lại tại thời điểm 3 năm sau đó. Nếu có > 10
polyp tuyến cần soi lại trong vòng trước
3 năm. Đối polyp răng cưa (serrated polyp) ³ 1cm soi lại tại
thời điểm 3 năm sau đó [10].
- Những người ít
có nguy cơ ung thư đại trực tràng: khi soi đại tràng phát hiện có 1-2 polyp loại tuyến ống, hoặc polyp kích thước nhỏ
<1 cm và không có loạn sản mức độ cao,
những bệnh nhân này soi đại tràng lại sau 5-10 năm. Đối polyp răng cưa < 1
cm và không có loạn sản soi lại tại thời điểm 5 năm sau đó. Đối với trường hợp
polyp tăng sản (hyperplastic polyp) bệnh nhân cần soi lại tại thời điểm 10 năm sau đó [10].
- Những người có
tiền sử gia đình: bố mẹ, anh em ruột và con bị ung thư đại trực tràng cần soi đại
tràng để sàng lọc ở tuổi 40 hoặc trước 10 năm so với tuổi của người thân bị ung
thư đại trực tràng [11].
- Những người bị
viêm loét đại tràng chảy máu hoặc bị bệnh Crohn: cần soi đại tràng hàng năm kể
từ năm thứ 8 khi phát hiện bị tổn thương toàn bộ đại tràng hoặc từ năm thứ 12 đối
với tổn thương toàn bộ đại tràng trái. Để phát hiện những tổn thương loạn sản [11].
- Những người bị
hội chứng polyp có tính chất gia đình (Familial adenomatous polyposis -FAP) cần soi đại tràng hàng năm [11].
Những
người bị ung thư đại tràng sau mổ phải kiểm tra nội soi như thế nào ?
-
Đối với bệnh nhân ung thư đại trực tràng mà trước khi
mổ chưa được nội soi đại tràng toàn bộ
vì các lý do khác nhau như: phải mổ cấp cứu do có tắc ruột hoặc chưa soi hết đại
tràng vì bán tắc ruột…, thì sau khi mổ 3 - 6 tháng phải được soi đại tràng toàn
bộ để phát hiện những vị trí ung thư khác tại đại tràng. Nếu hình ảnh nội bình
thường, bệnh nhân cần nội soi lại ở thời điểm 1 năm, 3 năm và 5 năm sau khi được
phẫu thuật [12]. Nếu khi soi phát hiện thấy có polyp thì việc theo dõi sẽ theo hướng dẫn về polyp phần trên.
-
Đối với bệnh nhân ung thư đại trực tràng
mà trước khi mổ đã được nội soi đại tràng toàn bộ: bệnh nhân cần nội soi lại ở thời
điểm 1 năm, 3 năm và 5 năm sau khi được phẫu thuật [12].
- Đối
với bệnh nhân ung thư trực tràng: bệnh nhân cần được soi đại tràng sigma cứ 3-
6 tháng 1 lần trong 2 năm đầu [9].
Nội
soi đại tràng toàn bộ có nguy hiểm, gây đau và gây khó chịu cho bệnh nhân
không?
Nếu
nội soi đại tràng toàn bộ không có thuốc giảm đau, tiền mê và gây mê thì bệnh
nhân rất đau và khó chịu. Phần lớn bệnh nhân đã soi đại tràng mà không có tiền
mê và gây mê thì không muốn nội soi đại tràng lại lần 2. Để phóng tránh được
ung thư đại tràng thì phương pháp tốt nhất là phải nội soi đại tràng toàn bộ.
Ngày nay, phần lớn bệnh nhân soi đại tràng tại khoa Tiêu hóa bệnh viện Bạch Mai
được nội soi tiền mê bằng fentanyl phối hợp cùng midazolam hoặc gây mê bằng propofol.
Đây là phương pháp nội soi đại tràng rất an toàn và không có hại cho sức khỏe của
bệnh nhân, điều này đã được Hội nội soi Tiêu hóa Hoa Kỳ chấp nhận [13], đồng thời, người bệnh cảm thấy không
khó chịu khi nội soi. Vì vậy, khi cần phải nội soi đại tràng lại theo định kỳ
người bệnh dễ dàng chấp nhận.
Chuẩn
bị trước và sau nội soi đại tràng như thế
nào?
Bữa tối trước ngày soi đại tràng bệnh
nhân ăn bình thường, nhưng không ăn rau và chất xơ
- Đối
với người đại tiện hành ngày bình thường: bệnh nhân uống thuốc rửa ruột trong
khoảng 3 giờ.
- Đối
với người bị táo bón: cần uống thuốc nhuận tràng làm mềm phân trong 3-4 ngày để
giúp bệnh nhân đi ngoài bình thường trước
khi soi.
- Đối
với bệnh nhân nghi bán tắc ruột: như đau bụng thành cơn, không đại tiện được
không được cho dùng thuốc rửa ruột mag phải thụt tháo làm sạch đại tràng trước
khi soi.
- Đối
với những người trên 50 tuổi nên xét nghiệm công thức máu và đông máu trước khi
nội soi, vì nếu phát hiện có polyp sẽ tiên hành cắt luôn trong quá trình nội
soi, tránh cho bệnh nhân phải nội soi lần sau.
Đối
với nội soi đại tràng có tiền mê và gây mê, sau khi soi bệnh nhân không tự điều
khiển các phương tiện giao thông.
Các
xét nghiệm máu và PET-CT (Positron emission tomography–computed tomography) có cho biết được ung thư đại trực tràng sớm
không?
Cho tới nay không có
xét nghiệm nào có khả năng dự báo là một người bị ung thư đại tràng ở giai đoạn
sớm, ngay cả với xét nghiệm CEA (Carcinoembryonic antigen). CEA có thể tăng
trong máu ở người ung thư tụy, ung thư dạ dày, ung thư tuyến giáp, ung thư vú [15] và tăng cả trong những bệnh không bị bệnh
ung thư như: viêm loét đại tràng chảy máu, xơ gan, bệnh phổi tắc nghẽn, bệnh
crohn và suy tuyến giáp [16],[17]. Chính vì vậy, CEA cũng được khuyến
cáo không nên sử dụng như một xét nghiệm để sàng lọc phát hiện ung thư đại
tràng. PET- CT được coi phương tiện hiện đại phát hiện di căn ung thư, nhưng cũng
không phải phương tiện được áp dụng để sàng lọc phát hiện ung thư đại trực
tràng ở giai đoạn sớm.
Như vậy, để phát hiện sớm và chữa khỏi ung thư đại tràng thì cách tốt nhất là nội soi đại tràng toàn bộ, đặc biệt là đối với người có nguy cơ cao bị ung thư đại trực tràng.
BS.TS. Vũ Trường Khanh - Phó trưởng khoa Tiêu Hóa bệnh viện Bạch Mai.
Tài
liệu tham khảo
1. Jemal A,
Bray, F, Center, MM, Ferlay, J, Ward, E, Forman, D (2011). "Global cancer
statistics". CA: a cancer journal for clinicians 61 (2): 69–9.
2. WHO . "Cancer".
World Health Organization. Retrieved January 5, 2011
3. LeTran
Ngoan. Cancer Mortality Pattern in Viet
Nam. Asian Pacific Journal of Cancer Prevention, Vol 8, 2007. 535.
4. Rebecca L.
Siegel, Elizabeth M. Ward, and Ahmedin Jemal (2012). Trends in Colorectal
Cancer Incidence Rates in the United States by Tumor Location and Stage,
1992–2008.Cancer Epidemiol Biomarkers Prev; 21(3).
5. Watson AJ, Collins, PD (2011). "Colon
cancer: a civilization disorder". Digestive diseases (Basel, Switzerland)
29 (2): 222–8.
6. Howlader N,
Noone AM, Krapcho M, Neyman N, Aminou R, Altekruse SF, Kosary CL, Ruhl J,
Tatalovich Z, Cho H, Mariotto A, Eisner MP, Lewis DR, Chen HS, Feuer EJ, Cronin
KA (eds). "SEER Cancer Statistics Review, 1975-2009 (Vintage 2009
Populations)". National Cancer
institute. http://seer.cancer.gov/csr/1975_2009_pops09/, based on
November 2011 SEER data submission, posted to the SEER web site, 2012.
7.Cunningham
D, Atkin W, Lenz HJ, Lynch HT, Minsky B, Nordlinger B, Starling N (2010).
"Colorectal cancer". Lancet 375 (9719): 1030–47.
8.Lee, I-Min;
Shiroma, Eric J; Lobelo, Felipe; Puska, Pekka; Blair, Steven N; Katzmarzyk,
Peter T (2012). "Effect of physical inactivity on major non-communicable
diseases worldwide: an analysis of burden of disease and life expectancy".
The Lancet 380 (9838): 219–29.
9.Fedirko V,
Tramacere, I, Bagnardi, V, Rota, M, Scotti, L, Islami, F, Negri, E, Straif, K,
Romieu, I, La Vecchia, C, Boffetta, P, Jenab, M (2011). "Alcohol drinking
and colorectal cancer risk: an overall and dose-response meta-analysis of
published studies". Annals of Oncology 22 (9): 1958–72.
10.David A and
at al (2012). Guidelines for Colonoscopy Surveillance After Screening and Polypectomy:
A Consensus Update by the US Multi-Society Task Force
on Colorectal
Cancer. Gastroenterology. 143:844 – 857.
11.American
Cancer Society recommendations for colorectal cancer early detection.
cancer.org 2014.
12. Rex DK,
Kahi CJ, Levin B, Smith RA, Bond JH, Brooks D, Burt RW, Byers T, Fletcher RH,
Hyman N, Johnson D, Kirk L, Lieberman DA, Levin TR, O'Brien MJ, Simmang C,
Thorson AG, Winawer SJ; American Cancer Society; US Multi-Society Task Force on
Colorectal Cancer (2006). Guidelines for colonoscopy surveillance after cancer
resection: a consensus update by the American Cancer Society and the US
Multi-Society Task Force on Colorectal Cancer. Gastroenterology.
May;130(6):1865-71.
13. American
Society For Gastrointestinal Endoscopy (2003): Guidelines for conscious
sedation and monitoring during gastrointestinal endoscopy. Gastro
Intestinal Endoscopy Vol. 58 No.3.
14. Duffy, M.
J.; Van Dalen, A.; Haglund, C.; Hansson, L.; Klapdor, R.; Lamerz, R.; Nilsson,
O.; Sturgeon, C.; Topolcan, O. (2003). "Clinical utility of biochemical
markers in colorectal cancer: European Group on Tumour Markers (EGTM)
guidelines". European journal of cancer (Oxford, England : 1990) 39 (6):
718–727.
15.CEA: the
test". Lab Tests Online (USA). American Assiciation for Clinical
Chemistry. Retrieved 23 June 2013.
16.
Maestranzi, S.; Przemioslo, R.; Mitchell, H.; Sherwood, RA. ( 1998). "The
effect of benign and malignant liver disease on the tumour markers CA19-9 and
CEA.". Ann Clin Biochem. 35 ( Pt 1): 99–103.
17. De Mais, Daniel. ASCP Quick Compendium of Clinical Pathology, 2nd Ed. ASCP Press 2009.